Có thể nói rằng đến với huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum là đến với Không gian Làng truyền thống – Những ngôi làng truyền thống, đơn sơ, mộc mạc, giản dị… bên con sông, con suối với những nhà Rông, nhà sàn, lễ hội truyền thống, Không gian văn hóa cồng chiêng… của bà con đồng bào các dân tộc Ba Na, Tơ Đra, Xê Đăng - Anh hùng, bất khuất trong đấu tranh cách mạng, hăng say trong lao động, sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa mới. Vậy, thực trạng công tác bảo tồn, giữ gìn, phát huy nhà Rông truyền thống trên địa bàn huyện, giai đoạn 2016 – 2021 ra sao? Làm gì, làm như thế nào để tiếp tục bảo tồn, phát huy nhà Rông truyền thống của bà con đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện, giai đoạn 2021 – 2025?
1. Thực trạng công tác bảo tồn, phát huy nhà Rông truyền thống các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện, giai đoạn 2016 - 2021
- Trên cơ sở các quy định hiện hành (đặc biệt là Công văn số 3358/UBND-KGVX ngày 12 tháng 12 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc quản lý, sử dụng nhà Rông trên địa bàn tỉnh), Ủy ban nhân dân huyện đã thường xuyên chỉ đạo các địa phương trên địa bàn huyện trong việc triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, huy động sức dân vào việc khôi phục nhà Rông truyền thống; vận động đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ bảo lưu, tổ chức các hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống; đồng thời đưa các nội dung sinh hoạt văn hóa mới vào nhà Rông để nhà Rông thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng theo đúng tình thần Chỉ thị số 21/CT-UB ngày 25 tháng 11 năm 1999 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc duy trì và khôi phục nhà Rông truyền thống vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; các chương trình hoạt động chuyên đề thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Thường xuyên chỉ đạo và gắn việc vận động xây dựng, quản lý hoạt động nhà Rông truyền thống với công tác vận động Khu dân cư văn hóa trong Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa nông thôn mới, đô thị văn minh” trên địa bàn huyện.
- Trong những năm qua, cùng với những kết quả đạt được trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, công tác bảo tồn, khôi phục, quản lý và sử dụng nhà Rông truyền thống của các dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn huyện đã được cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở quan tâm chỉ đạo, triển khai kịp thời và đạt hiệu quả tích cực. Đa số làng đồng bào dân tộc thiểu số đã sử dụng nguồn nguyên liệu tự nhiên sẵn có và nguồn lực của cộng đồng, địa phương để xây dựng nhà Rông đảm bảo kiến trúc truyền thống của dân tộc.
- Bên cạnh đó, với vai trò là một thiết chế văn hóa theo các quy định của cơ quan quản lý Nhà nước và theo hương ước, quy ước của làng, việc sử dụng nhà Rông luôn đảm bảo phù hợp với yếu tố truyền thống và các quy định của chính quyền các cấp về thiết chế văn hóa, thể thao cấp thôn, làng. Nhà Rông là nơi tổ chức lễ hội cổ truyền, các hoạt động tín ngưỡng dân gian, các hoạt động hội họp, sinh hoạt, tiếp khách đến làm việc...; nơi tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị - xã hội theo quy định.
2. Kết quả đạt được trong công tác bảo tồn, phát huy nhà Rông truyền thống các dân tộc thiểu số:
TT | Tên làng đồng bào | Xã, thị trấn | Dân tộc | Năm xây dựng | Nguyên vật liệu |
1 | Thôn 1 | Xã Đăk PNe | Ba na | 1985 | Nguyên liệu tại chỗ |
2 | Thôn 2 | Xã Đăk PNe | Ba na | 1991 | Nguyên liệu tại chỗ |
3 | Thôn 3 | Xã Đăk PNe | Ba na | 1994 | Nguyên liệu tại chỗ |
4 | Thôn 4 | Xã Đăk PNe | Ba na | 1989 | Nguyên liệu tại chỗ |
5 | Thôn Đak Jri | Xã Đăk Tờ Re | Tơ Đra | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
Thôn Đak Jri | Xã Đăk Tờ Re | Tơ Đra | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) | |
6 | Thôn Kon Jri Pen | Xã Đăk Tờ Re | Tơ Đra | 2010 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
7 | Thôn Đak Pơ Kong | Xã Đăk Tờ Re | Ba na | 1994 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
8 | Thôn Đak Ơ Nglăng | Xã Đăk Tờ Re | Ba na | 1996 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
Thôn Đak Ơ Nglăng | Xã Đăk Tờ Re | Ba na | 1994 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) | |
9 | Thôn Kon Xơ Mluh | Xã Đăk Tờ Re | Ba na | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
10 | Thôn Kon Dơ Xing | Xã Đăk Tờ Re | Ba na | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
11 | Thôn Đak Puih | Xã Đăk Tờ Re | Ba na | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
Thôn Đak Puih | Xã Đăk Tờ Re | Ba na | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) | |
12 | Thôn 5 | Thị trấn | Ba na (nhánh Jơ lâng) | 1993 | Nguyên liệu tại chỗ (cỏ tranh, tre, gỗ, mây, lồ ô...) |
13 | Thôn 7 | Thị trấn | Tơ Đra | 1992 | Nguyên liệu tại chỗ (cỏ tranh, tre, gỗ, mây, lồ ô...) |
14 | Thôn 8 | Xã Đăk Ruồng | Tơ Đra | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
15 | Thôn 9 | Xã Đăk Ruồng | Tơ Đra | 1984 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
16 | Thôn 10 | Xã Đăk Ruồng | Ba na (nhánh Jơ lâng) | 1981 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
17 | Thôn 11 | Xã Đăk Ruồng | Ba na (nhánh Jơ lâng) | 1996 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
Thôn 11 | Xã Đăk Ruồng | Ba na (nhánh Jơ lâng) | 1994 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) | |
18 | Thôn 12 | Xã Đăk Ruồng | Ba na (nhánh Jơ lâng) | 2002 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
Thôn 12 | Xã Đăk Ruồng | Ba na (nhánh Jơ lâng) | 2005 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) | |
Thôn 12 | Xã Đăk Ruồng | Ba na (nhánh Jơ lâng) | 2007 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) | |
19 | Thôn 4 | Xã Tân Lập | Tơ Đra | 2016 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
20 | Thôn 5 | Xã Tân Lập | Ba na | 2011 | Nguyên liệu tại chỗ (gỗ, tranh, tre, nứa, song mây...) |
21 | Thôn Kon Đó | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1994 | Nguyên liệu tại chỗ |
22 | Thôn Tu Ngó-Kon Bông | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1995 | Nguyên liệu tại chỗ |
23 | Thôn Kon RGỗh | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1993 | Nguyện liệu tại chỗ (tranh, gỗ, nứa...) + cột bê tông |
24 | Thôn Kon Rlong | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1994 | Nguyên liệu tại chỗ |
25 | Thôn Ngọc Răng - Nhân Liếu | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1990 | Nguyên liệu tại chỗ |
26 | Thôn Tu KRối | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1993 | Nguyên liệu tại chỗ |
27 | Thôn Trăng Nó - Kon Blo | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1996 | Nguyên liệu tại chỗ |
Thôn Trăng Nó - Kon Blo | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1997 | Nguyên liệu tại chỗ (tranh, gỗ, nứa,...) + Cột bê tông; mái tôn | |
28 | Thôn Tea Reang | Xã Đăk Kôi | Xê Đăng | 1998 | Nguyên liệu tại chỗ (tranh, gỗ, nứa,...) |
29 | Thôn 1 | Xã | Tơ Đra | 1961 | Nguyên liệu tại chỗ |
30 | Thôn 2 | Xã | Tơ Đra | 2004 | Nguyên liệu tại chỗ |
31 | Thôn 3 | Xã | Tơ Đra | 1942 | Nguyên liệu tại chỗ |
32 | Thôn 4 | Xã | Tơ Đra | 1944 | Nguyên liệu tại chỗ |
33 | Thôn 5 | Xã | Tơ Đra | 1957 | Nguyên liệu tại chỗ |
34 | Thôn 6 | Xã | Tơ Đra | 1996 | Nguyên liệu tại chỗ |
35 | Thôn 7 | Xã | Tơ Đra | 1920 | Nguyên liệu tại chỗ |
36 | Thôn 8 | Xã | Tơ Đra | 1994 | Nguyên liệu tại chỗ |
- Tuy nhiên, bên cạnh đó có một số ít nhà Rông trong quá trình xây dựng có sử dụng vật liệu bê tông cốt thép hoặc có sự pha trộn giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại (nguyên nhân: Nguồn nguyên liệu tự nhiên sẵn có ngày càng hạn chế). Công tác xã hội hóa, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn lực khác để xây dựng nhà Rông còn khó khăn; một số nhà Rông đã bị hư hỏng, xuống cấp nhưng thiếu kinh phí để xây dựng, nâng cấp, sửa chữa.
3. Một số nhiệm vụ, giải pháp bảo tồn, phát huy nhà Rông truyền thống các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện giai đoạn 2021 - 2025.
- Cần tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, huy động sức dân vào việc khôi phục nhà Rông truyền thống; vận động đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ bảo lưu, tổ chức các hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống.
- Xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện dự án nông thôn mới; xây dựng khu dân cư và đảm bảo các tiêu chí về cơ sở vật chất văn hóa theo Bộ tiêu chí về xã nông thôn mới (trong đó có nội dung xây dụng, sửa chữa, tôn tạo nhà Rông truyền thống).
- Triển khai công tác xã hội hóa, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn lực hợp pháp khác để xây dựng, sửa chữa nhà Rông.
- Gắn việc vận động xây dựng, quản lý hoạt động nhà Rông truyền thống với công tác vận động Khu dân cư văn hóa trong Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa nông thôn mới, đô thị văn minh” trên địa bàn huyện.
- Phát huy vai trò, uy tín của già làng, người đứng đầu tại các thôn, làng, nhất là trong nghi lễ tổ chức các hoạt động truyền thống tại nhà Rông nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc của thiết chế văn hóa này.
- Có cơ chế cụ thể, phù hợp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho Nhân dân các thôn, làng khai thác nguồn nguyên liệu, vật liệu tại chỗ để xây dựng, sửa chữa nhà Rông nhằm đảm bảo kiến trúc truyền thống.
Đến với huyện Kon Rẫy, yêu mến gắn bó với vùng đất Tây nguyên đầy nắng, gió và cũng nhiều mưa này, cũng chính là yêu mến nét đẹp truyền thống của những bản làng đơn sơ, mộc mạc, giản dị của bà con Ba Na, Xê Đăng, Tơ Đra với nhà Rông, nhà sàn, những Lễ hội truyền thống, điệu múa xoang nhịp nhàng của những cô gái, chàng trai hòa chung với âm vang của cồng chiêng bên ánh lửa bập bùng khi bản làng vào Hội... Những nét đẹp, bản sắc văn hóa truyền thống đặc sắc ấy cần được trân trọng, giữ gìn và phát huy hơn nữa trong thời gian tới./.
(Một Ngôi làng ven sông rất đổi thơ mộng của bà con Tơ Đra – xã Đăk Tơ Lung)